Luật sư trả lời về hành vi” Hành vi miệt thị, xúc phạm nhân phẩm người khác trên mạng xã hội đối với anh Phan Vũ Hợp Thành”
Ngày 5/10, anh Phan Vũ Hợp Thành trú tại xã Nam Trạch, tỉnh Quảng Trị đã đến Trung tâm Tư vấn Pháp luật tỉnh Quảng Trị đề nghị tư vấn và đưa ra biện pháp xử lý đối với đối tượng có tên là P.Đ.Q. sử dụng hình ảnh cá nhân của đăng trên các hội nhóm trên facebook với thông tin sai sự thật nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của anh.

Về vấn đề này, Luật sư Trần Văn Sỹ, hiện đang công tác tại Trung tâm Tư vấn Pháp luật tỉnh Quảng Trị trả lời như sau: Hiện nay, mạng xã hội ngày càng phát triển, việc đăng tải các hình ảnh, thông tin người khác trên mạng xã hội diễn ra ngày càng phổ biến, nguyên nhân của việc này là các cá nhân đăng tải chưa ý thức được hành vi này vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị đăng tải.
Dưới gốc độ pháp lý, hành vi miệt thị, xúc phạm, lăng mạ, châm biếm công khai các cá nhân trên không gian mạng là hành vi phạm pháp luật. Chưa xét đến tính đúng sai, tính xác thực của những thông tin được đăng tải, hành vi một cá nhân đăng tải hình ảnh và thông tin để miệt thị, xúc phạm người khác là hành vi không chuẩn mực, vi phạm phạm luật.
Căn cứ theo khoản 1, Điều 20 Hiến Pháp năm 2013 đã quy định “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.

Cũng theo Điều 34, Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định, theo đó: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”. “Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình”. Đồng thời pháp luật cũng nhấn mạnh “Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại”.
Theo đó, hành vi miệt thị, xúc phạm, làm nhục người khác trên mạng xã hội tuỳ theo mức độ và tính chất của hành vi sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Xử phạt hành chính: Căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP (được sửa đổi bởi khoản 37 Điều 1 Nghị định 14/2022/NĐ-CP) quy định về hành vi phạm các quy định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội; trang thông tin điện tử được thiết lập thông qua mạng xã hội như sau:
Vi phạm các quy định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội; trang thông tin điện tử được thiết lập thông qua mạng xã hội
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau:
- a) Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân;
…
Như vậy, hành vi sử dụng mạng xã hội để xúc phạm uy tín, nhân phẩm của cá nhân sẽ bị xử lý vi phạm hành chính từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng. Mức phạt này được áp dụng đối với trường hợp người vi phạm là tổ chức và cá nhân có hành vi vi phạm trên thì mức phạt tiền bằng 1/2 mức phạt tiền đối với tổ chức, căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Nghị định 15/2020/NĐ-CP.
Ngoài ra, người vi phạm buộc phải gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật.
Về vấn đề bồi thường thiệt hại: Căn cứ theo quy định tại Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015:
Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015:
“Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
- a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
- b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
- c) Thiệt hại khác do luật quy định.
- Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được hướng dẫn theo Nghị Quyết 02/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Theo đó, người bị thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp phát sinh thiệt hại thực tế kèm theo một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.
Về trách nhiệm hình sự: Nếu một cá nhân có hành vi công khai xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Làm nhục người khác” theo Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”.
Hành vi bịa đặt hoặc loan truyền những điều mà người thực hiện biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội “Vu khống” theo Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 với khung hình phạt cao nhất lên đến 03 năm tù.
Cần làm gì khi bị cá nhân khác đăng tải hình ảnh cá nhân và các thông tin sai sự thật trên mạng xã hội?
Khi bị người khác thực hiện hành vi vi phạm nêu trên gây ảnh hương đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, bạn có thể:
- Thu thập chứng cứ (ảnh chụp màn hình, đường link, bài đăng, bình luận…).
- Làm đơn trình báo đến lực lượng chức năng, làm đơn tố giác tội phạm gửi cơ quan công an xã phường nơi cư trú của người thực hiện hành vi nêu trênđể được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
- Khởi kiện ra toà án có thẩm quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và buộc cải chính công khai, xin lỗi.
Lưu ý khi tố giác tội phạm sai sự thật
Căn cứ điều 144 Bộ luật TTHS năm 2015:
“5. Người nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.”
Điều lưu ý khi các bạn thực hiện tố giác tội phạm, các bạn cần cân nhắc trước khi thực hiện quyền tố giác tội phạm, bởi nếu tố giác, báo tin sai về tội phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Mạng xã hội là không gian mở, nơi mà mỗi cá nhân cần nâng cáo ý thức thượng tôn pháp luật, tôn trong danh dự, nhân phẩm người khác và phải ứng xử văn minh, có chuẩn mực. Mọi hành vi miệt thị, xúc phạm hoặc bịa đặt thông tin sai sự thật đều có thể phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Bên cạnh đó, Luật sư Trần Văn Sỹ đã hướng dẫn, hỗ trợ các thủ tục gửi các cơ quan chức năng đề nghị xử lí theo quy định của pháp luật.

CÙNG CHỦ ĐỀ:
Luật Giám định tư pháp (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 1/5/2026
Chính phủ quy định phong tỏa tài khoản ngân hàng một số trường hợp từ ngày 1/1/2026
Những bất cập khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Điểm mới của Luật Nhà ở 2023 và Luật Đất đai 2024 liên quan đến hoạt động công chứng